Ở phần 3.1, chúng ta đã tìm hiểu về các hình thức đầu tư mà cá nhân mỗi người có thể tự thực hiện các chiến lược đầu tư đó cho bản thân. Tuy nhiên, các chiến lược đầu tư mà mình đã đề cập đều rất là phức tạp, kể cả chiến lược nghe có vẻ đơn giản nhất là Dividend investing. Nghe qua thì có vẻ như là chỉ cần ngồi phân tích các chỉ số về cổ tức rồi cứ vậy mà chọn ra những công ty có tỷ lệ cổ tức cao mà đầu tư.
Nhưng ở trong thực tế thì nó lại phức tạp hơn rất nhiều. Chúng ta vẫn phải phân tích về tương lai của công ty, biên độ lợi nhuận và nhiều yếu tố khác, từ đó mới đảm bảo được mức cổ tức sẽ ổn định trong dài hạn. Nếu chúng ta tính toán sai, chọn những công ty tuy là đang có mức cổ tức cao nhưng lại đang trên đà đi xuống thì không khéo là lợi nhuận của chúng ta cũng sẽ bị âm.
Do đó, hầu hết tất cả các chiến lược đã được liệt kê đều rất phức tạp, đòi hỏi chúng ta phải có rất nhiều kiến thức phân tích ở nhiều yếu tố khác nhau. Kể cả những người chuyên nghiệp, họ tốt nghiệp ở những trường kinh doanh hàng đầu trên thế giới, họ làm việc hàng ngày trong lĩnh vực tài chính, thì họ vẫn có thể ra những quyết định sai như thường, chứ nói gì đến những tay mơ như chúng ta.
Vậy thì câu hỏi đặt ra ở đây là với những người mới bắt đầu tìm hiểu như chúng ta, khi chúng ta còn chưa rõ những kĩ thuật phân tích, chưa có nhiều thông tin và kinh nghiệm trong những lĩnh vực đang có trên thị trường, thì làm sao chúng ta có thể tự mình đưa ra quyết định đầu tư?
Từ câu hỏi này đã dẫn chúng ta qua một hướng đầu tư hoàn toàn khác, tạm gọi là chiến lược nhờ người khác đầu tư giúp. Nghe qua thì có vẻ buồn cười, vì tiền của mình mà lại đi nhờ người khác đầu tư. Nhưng cả trên lí thuyết và trong thực tế đã chứng minh, đây là một trong những chiến lược hiệu quả nhất trong các chiến lược đầu tư hiện có trên thị trường.
Và hai loại hình đầu tư phổ biến nhất, hai đơn vị được “nhờ” nhiều nhất trong chiến lược này là quỹ tương hổ (Mutual Fund) và quỹ phòng hộ / quỹ thành viên (Hedge Fund).
1. Quỹ tương hỗ (Mutual Fund)
Đầu tư vào quỹ tương hỗ (Mutual Fund) là một trong những hình thức đầu tư chủ động (Active Investing) phổ biến nhất.
Giả sử các bạn đang có một số vốn, nhưng các bạn lại không có kiến thức cũng như không có thời gian để đầu tư. Còn mình là một nhà đầu tư chuyên nghiệp, đánh đâu thắng đó. Vì thấy được các kết quả đầu tư thắng lợi của mình và ngoài ra, các bạn còn thấy mình cũng dành nhiều thời gian để tìm hiểu thông tin đầu này đầu kia, phân tích công ty và thị trường các kiểu, nên các bạn thấy các khoản đầu tư của mình khá là chắc chắn.
Và các bạn suy nghĩ rằng các bạn chỉ cần gởi tiền cho mình, đầu tư ké với mình thì các bạn khỏi phải làm gì hết, mà nó lại còn an toàn hơn là tự các bạn đầu tư. Cứ thấy mình mua cổ phiếu của công ty nào thì các bạn cũng gởi tiền nhờ mua một ít, tới cuối năm thì mình lời bao nhiêu % thì các bạn lời bấy nhiêu %.
Tính ra là các bạn không phải làm gì hết, cứ đưa tiền cho mình đầu tư là xong. Ở góc độ của mình, mình thấy được nhu cầu của khá nhiều bạn như vậy nên mình quyết định lập ra một cái quỹ để mà các bạn gởi tiền vào cho mình đầu tư, sau đó mình sẽ cầm tiền này đi đầu tư (tất nhiên là mình sẽ cam kết chỉ dùng để đầu tư chứ không có ăn uống gì trong đó).
Và cái quỹ đó được gọi là quỹ tương hỗ (Mutual Funds). Mình sẽ dùng cái quỹ tương hỗ này, kết hợp với kiến thức và kinh nghiệm của mình để phân bổ quỹ này vào các khoản đầu tư sao cho hợp lí, quyết định xem nên mua cổ phiếu nào, nên bán cổ phiếu nào.
Mình phải tính toán là mình sẽ chia bao nhiêu % cho Growth investing, bao nhiêu % cho Value investing và bao nhiêu % cho Dividend investing. Mục tiêu cuối cùng là mình sẽ làm mọi cách để mang về cho các bạn khoản lợi nhuận cao hơn thị trường. Đó cũng là mục tiêu cuối cùng của các Mutual Fund, đó là cố gắng đánh bại thị trường và đạt được lợi nhuận như quỹ kì vọng.
Tất nhiên là khi mình dành thời gian, tâm huyết, kiến thức của mình để đem tiền của các bạn đi đầu tư cho các bạn, mình sẽ không thể đi làm các việc khác được, vì thế mình sẽ không có thu nhập, cho nên các bạn phải trả một khoản phí cho mình, tạm gọi là lương. Và khi mình đầu tư thắng lợi, các bạn cũng phải trích một phần từ lợi nhuận ra để tưởng thưởng cho mình để mình có động lực làm việc cho các bạn, khoản này mình tạm gọi là thưởng.
Đối với Mutual Fund thì khoản lương đó được gọi là phí quản lý (Management fee), và khoản thưởng mà các bạn phải trả cho quỹ được gọi là phí hiệu quả (Performance fee). Hai mức phí này sẽ tùy thuộc vào từng quốc gia và thị trường chứng khoán tại quốc gia đó.
Ở Việt Nam thì Management free thường rơi vào khoảng từ 1% đến 2% trên giá trị của số tiền mà bạn bỏ vào quỹ, còn Perfomance thường sẽ rơi vào khoảng 20% trên lợi nhuận mà bạn đạt được.
Hình 1: Thông tin về một Mutual Fund được công khai trên website của công ty quản lý Mutual Fund đó, trong trường hợp này là công ty VinaCapital
Ví dụ bạn gởi cho quỹ 1 tỷ để quỹ đầu tư, thì Management fee mà bạn phải trả sẽ là khoảng từ 1% đến 2% của 1 tỷ, tức là khoản từ 10 triệu đến 20 triệu, và sau khi đầu tư thì lợi nhuận của bạn thu được sẽ là 500 triệu, tổng cộng là bạn có 1,5 tỷ, tức là Perfomance fee mà bạn phải trả cho quỹ sẽ là 20% của 500 triệu, tính ra là 100 triệu.
Tổng chi phí mà bạn phải trả cho quỹ sẽ là khoảng từ 110 triệu đến 120 triệu. Và kể cả khi quỹ có đầu tư thất bại, không cần biết là bạn bị lỗ bao nhiêu, bạn vẫn phải trả Management fee trong khoảng từ 1% đến 2% của 1 tỷ, tức là cho dù quỹ có đầu tư thua lỗ 10%, bạn chỉ còn 900 triệu thôi, nhưng bạn vẫn phải trả Management fee là 10 triệu đến 20 triệu.
Một số ưu điểm của chiến lược này như sau:
- Sẽ có “chuyên gia” đầu tư thay cho chúng ta: những Mutual Fund đều được quản lý và vận hành bởi các chuyên gia trên TTCK, hoặc ít nhất là những nhà đầu tư chuyên nghiệp, có chuyên môn. Chúng ta không cần phải làm gì hết, những “chuyên gia” đó sẽ thay chúng ta đầu tư.
- Đảm bảo được yếu tố “không để trứng vào một rổ” (Diversify): với tiềm lực tài chính của quỹ thì một Mutual Fund sẽ mua rất nhiều cổ phiếu ở nhiều danh mục thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Chẳng hạn như nếu các bạn tự đầu tư, các bạn sẽ cần một lượng tiền tương đối lớn để có thể mua nhiều cổ phiếu của nhiều công ty khác nhau. Tuy nhiên nếu đầu tư vào quỹ, bạn chỉ cần gởi vào một số tiền nhất định, quỹ sẽ gom tiền của nhiều người như bạn lại và bắt đầu mua cổ phiếu của nhiều công ty khác nhau, và khi bạn sở hữu một phần của quỹ này thì cũng tương đương với việc là bạn đang sở hữu (một phần) cổ phiếu của nhiều công ty khác nhau vậy. Do đó nếu lỡ có một công ty nào đó có kết quả kinh doanh không tốt thì cũng còn có nhiều công ty khác trong danh mục sẽ bù lại khoản lỗ của công ty đó.
Một số nhược điểm của chiến lược này như sau:
- Tính linh động không cao như cổ phiếu: khi bạn sở hữu cổ phiếu, bạn có thể mua và bán bất cứ lúc nào bạn muốn, và thao tác mua bán sẽ rất đơn giản, chỉ cần thông qua một số thao tác đặt lệnh, bạn đã có thể mua bán cổ phiếu. Nhưng khi đầu tư vào quỹ, họ sẽ có những yêu cầu về thời gian để tiền trong quỹ, hoặc nếu bạn muốn mua hoặc bán thì phải thông qua các văn bản, thủ tục khá rườm rà.
- Có giới hạn tối thiểu: tức là các quỹ sẽ có những yêu cầu về mức đầu tư tối thiểu mà bạn phải có thì mới được tham gia vào quỹ. Chẳng hạn như quỹ của mình thì chuyên đánh lớn, nên bạn muốn vào thì phải đầu tư ít nhất 10 triệu, dưới 10 triệu thì bên mình không nhận.
- Các khoản phí khá cao: các khoản phí của Mutual Fund thì mình đã đề cập đến ở trên, họ tính theo % khá là cao.
- Số liệu thống kê cho thấy về lâu dài, chiến lược này mang lại tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn tỷ lệ tăng trưởng của thị trường.
2. Quỹ phòng hộ / Quỹ thành viên (Hedge Fund)
Về bản chất và cách vận hành thì quỹ phòng hộ / quỹ thành viên (Hedge Fund) cũng giống như quỹ tương hỗ (Mutual Fund), nhưng có một số khác biệt nho nhỏ sau đây:
Hedge Fund | Mutual Fund |
Hội kín, chọn lọc nhà đầu tư Yêu cầu lượng vốn vào rất nhiều Chiến lược đầu tư cực kì mạnh bạo Danh mục đầu tư rất đa dạng Sẵn sàng đầu tư với những chiến lược cực kì rủi ro Lợi nhuận cao hơn, rủi ro lớn hơn | Hội mở, ai vào cũng được Yêu cầu lượng vốn vào ít hơn Chiến lược đầu tư không bạo lắm Danh mục đầu tư không nhiều bằng Mức độ rủi ro không cao bằng Lợi nhuận thấp hơn, rủi ro thấp hơn |